Misteri

Văn hoá PG
Home » » Hội họa Phật giáo

Hội họa Phật giáo

Nghệ thuật trong Thiền khá tinh tế. Đặc điểm nổi bật của những bức tranh Thiền  là sự đơn giản đến tối đa, tưởng chừng phi nghệ thuật, nhưng chính là khả năng hướng nội, sự viên mãn trong trống trải, tính sâu sắc chỉ trong vài đường nét. 
NGHỆ THUẬT THIỀN HỌA
Thiền bắt đầu từ thời Phật Thích Ca, rồi được tổ Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) từ Ấn Độ truyền sang Trung Quốc vào năm 480. Ngài là Tổ sư Thiền Tông đời thứ 28  ở Ấn Độ. Ở Trung Hoa, lúc ban đầu Thiền bị ảnh hưởng mạnh của Lão Giáo và Khổng Giáo.
Thiền chỉ độc lập và nổi tiếng ở đây từ thế kỷ thứ VII (đời Đường) và trở thành một tông phái chính ở Trung Hoa. Thiền được giới thiệu đến Nhật vào khoảng thế kỷ thứ IX qua hai Thiền phái Lâm Tế (Rinzai Sect) và Tào Động (Soto/ Tao tung); cả hai đều ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của ngài Lục tổ Huệ Năng ở thế kỷ thứ  VIII. Nếu Thiền Lâm Tế thích ứng với giới thượng lưu trí thức, thì Thiền Tào Động lại gần với tầng lớp bình dân. Thiền sư đắc đạo với tâm bao la, hoà nhập với  trời đất và có sức ảnh hưởng lớn vào lòng người, vũ trụ và nhân sinh.
Thiền tâm ngự trị trong thế giới trầm lặng thì nó tỏa sức sống, tạo thành cảnh giới yên  tĩnh, an vui kỳ diệu. Thậm chí Thiền đi vào trong võ thuật, tạo thành giới võ sĩ đạo Nhật. Thiền đi vào nghệ thuật cắm hoa, uống trà là những sinh hoạt rất bình thường, nhưng uống trà, cắm hoa theo phong cách Thiền là Hoa đạo, Trà đạo thì khác hẳn. 
Tuy nhiên chỉ có Thiền sư,  Thiền sinh tức là những người có sức sống Thiền mới có khả năng thể hiện Hoa đạo, Trà đạo. Trong lĩnh vực nghệ thuật, những tác phẩm Thiền họa có giá trị tuyệt đối. Chỉ cần vài nét đơn sơ phác thảo một cành hoa, một hòn đá trên nền trắng, mực đen cũng đủ toát lên sức sống mạnh mẽ, không cần sử dụng nhiều màu, không vẽ thêm gì nữa.
Thiền đã ảnh hưởng đậm nét trong tâm hồn của hai dân tộc Hoa - Nhật suốt bao thế kỷ, trong sinh hoạt đời sống hàng ngày cũng như trong học thuật, mỹ nghệ. Thiền họa ở Trung Hoa cũng có những nét đặc biệt trong lịch sử hội họa của nước này. Từ trước, hội họa truyền thống của Trung Hoa gồm các chủ đề ước lệ, thể hiện với màu sắc đậm  nhạt khác nhau, thậm chí những màu rực  rỡ. Các chủ đề này được lặp đi lặp lại thể tài về hoa (mai, lan, cúc, trúc, sen, thủy tiên, mẫu đơn, quỳnh, tử đằng), cầm  thú (phụng, hạc, ưng, trĩ, công, két, quạ, chim cút, vịt trời, nai, dê),  linh thú (long, lân, quy, phụng), côn trùng (bướm, chuồn chuồn, dế, bọ ngựa, sâu, kiến), thủy tộc (cá, tôm cua, ngạc ngư, sấu), cây cối (mai, lan, cúc, trúc, tùng, bách, ngô đồng, dương liễu), phong cảnh (mây nước, sóng gió, biển cả, khe suối, thác ghềnh), nhân vật (truyền thuyết và hiện thực).
Những chủ đề này được các họa sĩ khai thác triệt để mọi góc cạnh qua bao thế kỷ. Có những danh họa chuyên về hoa, về đá, trúc hay lan... Trong chiều hướng đó,  hội hoa Trung Hoa đi dần vào biển chết (tử hải). Hoạ sĩ thường cảm thấy lúng túng, chật vật, vì sợ trùng lắp. Những ý tưởng cũ kỹ đã được các tiền bối khai thác đến tận cùng rồi.
Cho đến khi Thiền du nhập thì hội  họa Trung Hoa bắt đầu thoát ly khỏi Tử hải đó. Thiền đã thổi vào nền hội họa truyền thống của Trung Hoa luồng sinh khí mới, để cứu khỏi ngõ bí. Cách thể hiện của Thiền là nguồn cảm hứng bất tận cho người nghệ sĩ và họ cố đi vào con đường này để có thể mở chân trời mới.
Trong sinh hoạt tinh thần, hội họa cũng là phương tiện để thể nghiệm Thiền cũng như Trà đạo, Kiếm đạo, Hoa đạo. Nhưng phương châm của Thiền là "Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự", thành  thử phải thể hiện theo phong cách nào để đưa hội họa trở thành phương tiện để chuyển tải tư tưởng thâm sâu của Phật Giáo.
Đành rằng Thiền họa là lối thoát cho nền hội họa tắc nghẽn, tuy nhiên, thực hiện cũng như thưởng ngoạn đã không dễ dàng. Đạt được tư duy và sáng tạo này đòi hỏi  những cố gắng không ngừng về tu tập Thiền. 
Nhiều nhà nghiên cứu đã phân tách khá cặn kẽ về lĩnh vực này. Chẳng hạn như trong cuốn "The Art of  Zen" của Stephen Addiss (1989) đã nêu lên những điều xem như là "nghịch lý" trong nghệ thuật Thiền: "Sự thật, Thiền bao hàm những sự kiện tưởng chừng nghịch lý. Thiền đã là "vô tự", nhưng cho đến nay, số lượng sách  viết về Thiền thì vô số kể! Thiền là "cá thể" (individual), tuy nhiên trong tu tập phải cần đến Thiền sư hướng dẫn bước đầu. Thiền là "thực tiễn" (down to earth), bàng bạc trong cuộc sống hàng ngày, tuy nhiên, được thực hành nghiêm ngặt trong hầu hết các thiền viện. Thiền mang tính trang nghiêm, nhưng chứa đựng nhiều nụ cười hóm hỉnh. Thiền đòi hỏi phải hiển thị (being) hơn là biểu tượng, tuy nhiên lại được cảm truyền qua nhiều hình thức nghệ thuật như: Vườn thiền, Hoa đạo (Kwado), Trà đạo (Chanoyu), Tranh thiền... 
Thiền hướng dẫn cho chúng ta không những chỉ "nghe" (hearing) mà phả ibiết "lắng nghe" (listening); không chỉ "nhìn" (looking) mà phải biết "thấy" (seeing); không chỉ "nghĩ" (thinking) mà phải đi vào "kinh nghiệm" (experience). Sau cùng, không  nên chỉ bám víu vào những điều hiểu biết suông, phải chấp nhận, hoan hỷ hoà nhập vào thế giới hiển hiện...”
CÔNG BÚT VÀ  Ý BÚT
Hội họa Trung Hoa thường được phân chia ra làm 2 lối: công bút và ý bút. Công bút là bỏ nhiều công phu trong việc trau chuốt từng chi tiết một, chọn lọc kỹ càng;  trong khi đó ý bút  là bút pháp tả ý trong một số đường nét; tuy  nhiên trong Thiền họa bút pháp này ly khai các màu sắc, chỉ có mực đen giấy trắng. Người Nhật gọi  là "mặc hội" (Sumie); Trung Hoa gọi là "mặc họa". Cũng không phải là "thủy mạc" vì không cần đến đậm nhạt trong màu đen.
Nghệ thuật trong Thiền khá tinh tế. Đặc điểm nổi bật của những bức tranh Thiền  là sự đơn giản đến tối đa, tưởng chừng phi nghệ thuật, nhưng chính là khả năng hướng nội, sự viên mãn trong trống trải, tính sâu sắc chỉ trong vài đường nét.  Trong Thiền họa, sự tiết giảm nét bút là cần thiết, để lại nhiều khoảng trống trên nền vẽ, mà nhiều nhà nghiên cứu gọi là "phong cách vẽ một góc" (one corner style). 
Giấy và  mực trong Thiền họa cũng là điều đáng nói. Phải là mực đen làm bằng bồ  hóng, tức là muội than của gỗ tùng và khói dầu, rồi trộn chung với chất keo dẻo, theo một tỷ lệ vừa phải, đun lỏng rồi đúc thành thỏi để nguội lại. Hoạ sĩ Thiền thường tự tay làm lấy. Tiếp đến là bút lông (mao bút). Thường làm bằng những loại lông thú như cừu, chồn, sói, chuột, thỏ. Có nhiều cỡ: nét nhỏ, mạnh thì dùng  lông thỏ; nét lớn thì dùng lông cừu. Giấy vẽ là loại giấy rất mỏng, đặc biệt là loại "giấy Tuyên" còn gọi là "xuyến chỉ".
Từ đời Tống trở về trước, tranh Trung Hoa thường dùng lụa làm chất liệu nền. Từ  đời Tống trở về sau, do kỹ thuật giấy tinh xảo hơn, bắt đầu xuất hiện loại giấy Tuyên. Trong hội họa bình thường, khi vẽ sơn thủy và tả ý thì dùng giấy; vẽ nhân vật, hoa điểu thì dùng lụa.
Nhưng dù là giấy hay lụa, cả hai đều là chất liệu lý tưởng, hút mực dễ dàng. Dùng đến những chất liệu mong manh như loại giấy Tuyên để thể hiện nguồn biểu cảm của họa sĩ thì phải chuyển đi thật nhanh, đường nét phóng ra từ tâm hồn khoáng đạt; nếu dừng  lại để suy nghĩ, giấy sẽ bở rách, đọng mực nhiều. Họa sĩ Trung Hoa không mấy khi dùng sơn dầu như họa sĩ Tây Phương. Thiền họa lại càng chối bỏ. Khi phác họa, đường nét cần phải nhanh, chuẩn xác, tiết giảm đến tối đa, chỉ thể hiện những gì cần thiết.
Đề  tài họa được nung nấu sâu sắc, hun đúc nhiều ngày tháng, cho nên khi họa chỉ  thực hiện theo tình ý đó. Như thế, một nét bút của Thiền họa được phóng ra là duy  nhất, xác quyết; dù thế nào chăng nữa thì người nghệ sĩ cũng không tô lại, thêm bớt, điểm xuyết nữa. Thiền họa gọi đó là "ý lực họa" tức là thể tài được huân tập lâu ngày, do nội tâm chuyển hoá. 
Nét vẽ trong Thiền họa cần phải tự do, thoát sáo, không gò ép, tẩy xoá hay miễn cưỡng. Họa sĩ chỉ để cánh tay cầm bút đưa theo giòng mỹ cảm tự nhiên, thực hiện  theo tự phát. Trong khi thao tác, cánh  tay, bàn tay, ngọn bút chính là một tổng thể hoà hợp duy nhất. Nghệ sĩ cứ tưởng như có bàn tay vô hình nào chuyển vận trong phút xuất thần.
Trong Thiền họa, người ta thường nói đến bản năng phi kiểm soát, nhưng đầy khổ luyện, kể cả những lúc toạ Thiền. Thành thử, họa sĩ Thiền họa phải là những Thiền  sư hay ít ra là Thiền sinh tu tập lâu năm. Vẽ với họ chỉ là cách thể hiện khả năng Thiền định của mình khi "minh tâm kiến tính". Khi khởi sự vẽ, giữa giấy và mực là sự trống vắng; nếu có những suy nghĩ, đắn đo nào, thì sẽ phá vỡ tác phẩm. Nhiều người quen thưởng thức tranh Tây Phương, khi nhận định tranh Thiền (đúng nghĩa Thiền), cứ tưởng là những nét nguệch ngoạc, cẩu thả, ấu trĩ.
Đường nét tranh Thiền tưởng chừng mang ý nghĩa bất toàn. Nó bất chấp luật lệ về phối cảnh (perspective) và luật lệ về vẽ bóng của nguyên tắc hội họa Tây Phương. Điều cốt lõi trong loại tranh này chính là "cái thần khí", cái "hồn tính" mà vẽ  chỉ là giải phóng những tiềm ẩn lâu ngày. Nguồn biểu cảm của tranh Thiền thiên về thiên nhiên cho nên người thưởng ngoạn phải hiểu biết về tư duy Thiền trước đã. Nghệ  nhân Thiền không bao giờ quan tâm đến sự phê phán, mà hướng về trực cảm. Nhiều chân dung của các vị Tổ  Thiền tông cũng được vẽ theo đường hướng  này.
Trong cuốn "Buddhist Art and Architecture" tác giả Robert E. Fischer  viết: "Sự quan trọng chủ yếu là những bức chân dung của các vị Tổ sư Thiền mang những hình tượng  thuộc về điêu khắc lẫn hội họa Thiền, đối với chân dung của các nhà sư (Chinzo) được dùng như một biểu tượng của lờigiao ước không nói ra giữa thầy  và trò. Khi mọi người thiền định chân chính, đi đến giác ngộ, chân dung của những vị Tổ sư dùng để minh chứng cụ thể mối liên hệ bằng trực giác giữa hai người, và thuờng được người ta đưa ra một ý nghĩa hỗ trợ cho nhân cách, bằng hình thức bổ sung nghệ thuật viết chữ đẹp của vị thần tổ..."(trang 230).  
Một trong những bức chân dung quan trọng nhất của Thiền họa là về ngài Bồ Đề Đạt Ma, vị Tổ sư Thiền Trung Quốc đầy huyền thoại. Để phù hợp với khuynh hướng châm biếm của Thiền phái, ngài Bồ Đề Đạt Ma thường được miêu tả một cách hài hước, một sự đột phá xa hơn, dựa trên những phương pháp tu tập của  Phật Giáo truyền thống. Thậm chí, trong những Mạn Đà La (Mandala) của Mật Tông ngày nay, một số Thiền sư cũng thể hiện theo phong cách Thiền họa, phá vỡ lối cân đối, khung sáo.
YẾU LÝ HỘI HỌA PHẬT GIÁO
Thiền họa khác với lối vẽ tranh sơn dầu kiểu Tây Phương. Trong tranh sơn dầu,  vấn đề chính là tuân thủ một bố cục nghiêm nhặt, màu sắc lung linh uyển chuyển, theo quy củ, theo hệ thống. Họa sĩ dùng vải, bố trên khung, nên việc tẩy xoá  tương đối dễ dàng. Nhưng  trong Thiền  họa thì lại khác. Những dụng cụ dùng trong Thiền họa rất đơn giản, thậm chí quá nghèo  nàn. Đường nét Thiền họa thường đơn sơ, giản lược đến mức tối đa, chỉ vẽ lên những gì cần thiết nhất chính trong tâm thức.
Tuy nhiên, đi sâu vào từng đường nét của Thiền họa, sẽ thấy bùng vỡ cả một nhịp sống ẩn tàng, sôi động. Từng nét chấm  phá, xúc tích nói lên không biết bao nhiêu  tình ý. Người xem loại tranh dầu đóng vai trò khách quan trong thưởng ngoạn;  nhưng người xem Thiền họa thì "chuyển khách vi chủ", tự xem mình là người  khám phá. Tranh Tây Phương nói lên hết trong màu sắc; tranh Thiền họa thì "ý tại sắc ngoại" (ý ở ngoài màu sắc), tùy theo trình độ thưởng ngoạn để giải thích và khám phá. 
Thậm chí những chi tiết bình thường như tảng đá, búp non, lá rơi... nhưng chuyển tải không biết bao nhiêu là nội dung sâu thẳm. Một cành trúc la đà trước gió là hình ảnh của sức sống phiêu bồng; một chiếc thuyền nan trên bến sông biểu hiện tâm hồn bao la, siêu trần; một ông lão bên bờ suối gợi lên "một chút linh hồn nhỏ;  mang mang thiên  cổ sầu".
Chỉ có những nét mong manh, chắt lọc trong Thiền họa mới toát lên sắc thái đó. Thiền họa không thiên về tả chân, không mô phỏng, sao chép. Một chấm nhỏ là  hình chim, một đường con là ngọn núi. Một chiếc giày trên bãi cát nói lên cuộc  phong trần. Rất đơn giản mà cũng rất hàm xúc. Nghệ sĩ Thiền họa không mấy khi nhìn cảnh vật để kiếm đường nét, mà hướng về nội tâm để chiếu kiến cách diễn tả.
Cung cách thực hiện của nghệ sĩ Thiền họa cũng giống cách Thiền định ở thiền đường, cách uống trà trong Trà Đạo, cách dùng kiếm trong Kiếm Đạo. Hội họa trở  thành cuộc sống thể nhập. Điều này giải thích tại sao những người thành công  trong Thiền họa phải là những Thiền sư hay ít ra cũng thâm nhập tư tưởng Thiền trong cuộc sống từng sát na. 
Từ trong ý nghĩa đó, nét bút của nghệ sĩ Thiền họa rất dứt khoát, chính xác, không tô sửa, tẩy xoá. Còn hoài nghi thì họ hủy bỏ, để an  tâm, dưỡng khí. Người vẽ phải  xuất thần, nhập hóa. Bút và người là một. Sáng  tạo trở thành da thịt của họ. 
Tranh của họ không cần phải phủ hết trang giấy. Nhiều khoảng trống trong tranh.  Khoảng trống cũng là cách vẽ. Thiền họa phải là sáng tạo hoàn toàn, không sao chép, không mô phỏng. Nhờ thế, đề tài Thiền họa vốn vô biên, vô tận để khai  thác. Chỉ có những tâm hồn khai phóng của Thiền định mới đạt mức đó. Trong tranh  Thiền, thường có những nét bắt chợt, bất ngờ.
Cũng như Thiền sưđ ốn ngộ, những đường nét này nói lên tất cả. Khi vẽ xong, nghệ sĩ chẳng mấy khi nhìn lại, thanh thản ra đi. Họ cũng không suy nghĩ là đã đạt hay chưa đạt. Họ tránh nhiễu loạn nội tâm. Vẽ trở thành hình ảnh cuộc sống. Tinh thần sảng khoái trong hội họa cũng như trong thi ca "Thi trung hữu họa; họa trung hữu thi".
GS. Trần Kiêm Đạt
Share this article :